Nuôi biển - Hướng đi chiến lược phát triển nghề cá

|

Nuôi biển - Hướng đi chiến lược phát triển nghề cá

Nguồn lợi thủy sản từ biển khô;ng chỉ đem lại giá trị kinh tế cao mà còn đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế của cả nước. Từ nhiều năm về trước, khi tình trạng nguồn hải sản biển ngày càng suy giảm do khai thác quá mức nhằm đáp ứng cho nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu, nuô;i trồng hải sản ngoài biển đã trở thành xu hướng phát triển tất yếu. Đến nay, nuô;i biển khô;ng chỉ là một xu hướng bộc phát mà còn có khả năng tạo ra đột phá kinh tế, góp phần tạo nguồn cung nguyên liệu ổn định cho xuất khẩu thủy sản và trở thành trọng điểm trong chiến lược phát triển nghề cá bền vững.

Thủy sản nuô;i biển chiến lược phát triển bền vững

Nuô;i trồng thủy sản ở Việt Nam đã xuất hiện từ khoảng cuối những năm 1960 với các hệ thống nuô;i cấy quy mô; nhỏ, giá trị kinh tế chưa cao. Từ một nghề sản xuất phụ, mang đậm tính chất tự cấp tự túc, trải qua hàng chục năm, nuô;i trồng thủy sản trên biển đã trở thành một ngành kinh tế thế mạnh, sản xuất hàng hóa tập trung với trình độ kỹ thuật tiên tiến, phát triển theo hướng bền vững, hài hòa với các ngành kinh tế khác, đem lại nguồn lợi lớn cho đất nước, giúp làm giàu cho bà con nô;ng dân vùng ven biển và hải đảo. Theo các chuyên gia của Hiệp hội Nuô;i biển Việt Nam, nuô;i biển được đánh giá cao hơn về hiệu quả kinh tế - mô;i trường, do có năng suất cao hơn, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp hơn (FCR của cá biển sử dụng thức ăn viên chỉ từ 1,0-2,5; trong khi động vật trên cạn 4,0-8,0), lại ít gây hại tới mô;i trường. Ngoài nuô;i cá biển, Việt Nam có thể phát triển nuô;i với sản lượng rất lớn những loài thủy sản ăn lọc, tận dụng thức ăn tự nhiên, như các động vật thân mềm (hàu, vẹm, nghêu, sò, trai, ốc…); trồng rong biển có thể đạt 400 kg protein/ha/năm (so với trồng cây trên đất chỉ thu 16kg/ha/năm) mà khô;ng hề tốn phân, thuốc bảo vệ thực vật và nước tưới, lại có tác dụng rất lớn làm giảm CO2 và hấp thu các tác nhân gây ô; nhiễm khác trong khí quyển và đại dương. Tại Việt Nam, các loài hải sản chính phù hợp làm đối tượng nuô;i biển là cá và tô;m; trong đó có các loại cá biển được nuô;i như: Cá song, cá gió, cá vược, cá chẽm…; các loại giáp xác như: Tô;m hùm, cua, ghẹ…; một số loài nhuyễn thể như: Ngao, hàu, tu hài, ốc hương… và rong biển.

Giai đoạn 2010-2017, quy mô; và sản lượng nuô;i trồng thủy sản của Việt Nam tăng lên đáng kể. Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, diện tích nuô;i biển tại các vùng biển Việt Nam đã tăng gấp 9,7 lần, từ 38,8 nghìn ha trong năm 2010 lên hơn 246 nghìn ha năm 2017. Cùng với đó, sản lượng nuô;i biển cũng tăng từ 156 nghìn tấn lên tới trên 377 nghìn tấn. Nghề nuô;i biển phát triển nhanh và mạnh tại một số địa phương ven biển như: Quảng Ninh, Thái Bình, Khánh Hòa, Bình Thuận, Phú Yên, Kiên Giang, Cà Mau… với những mô; hình nuô;i biển có quy mô; lớn. Các sản phẩm nuô;i trồng trên biển của Việt Nam đã khẳng định được giá trị và góp mặt tại các thị trường lớn với yêu cầu cao về tiêu chuẩn chất lượng như: Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore… Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ của khoa học cô;ng nghệ đã giúp cho nuô;i biển chủ động được cô;ng nghệ sản xuất giống và con giống, nuô;i thương phẩm nhiều loại có giá trị kinh tế, năng suất ngày càng cao, đem lại giá trị vượt trội và tạo ra bước ngoặt lớn cho nghề nuô;i trồng thủy sản trên biển của Việt Nam. Điển hình là một số cô;ng nghệ sản xuất giống thủy sản đã tiếp cận hoặc vượt cả trình độ các nước trong khu vực như cô;ng nghệ sản xuất giống cua biển, ốc hương… Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha mặt nước nuô;i trồng thủy sản đã tăng gấp 5,3 lần, từ 42,5 triệu đồng/ha năm 2004 lên 226,3 triệu đồng/ha năm 2018. Với năng suất sản lượng ngày càng cao, vượt qua cả sản lượng hải sản khai thác. Nuô;i trồng thủy sản trên biển đã cho thấy khả năng tăng trưởng theo cấp số nhân, đồng thời thể hiện vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi từ khai thác tài nguyên thiên nhiên sang nuô;i trồng trên mặt nước nói chung và nuô;i biển nói riêng, góp phần tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho cô;ng nghiệp chế biến, xuất khẩu, làm tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu chung của ngành Thủy sản và quan trọng là bảo vệ tài nguyên biển Việt Nam và thế giới.

 

Mô; hình lồng nuô;i ngoài biển, nguồn Internet

Hiện nay, Việt Nam đã xác định nuô;i trồng thủy sản trên biển là một trong những trụ cột chính trong định hướng phát triển thao chung, hướng đến phát triển bền vững nghề cá và tạo ra đột phá cho ngành Thủy sản nói riêng cũng như kinh tế đất nước nói chung. Vì vậy, để nuô;i biển tham gia vào chuỗi sản xuất giá trị bền vững, việc từng bước chuyển dịch nuô;i biển thủ cô;ng ven bờ sang nuô;i biển cô;ng nghiệp ở vùng xa bờ và hải đảo với sự tham gia của các doanh nghiệp có quy mô; lớn, sử dụng cô;ng nghệ hiện đại, song song với bảo vệ mô;i trường được coi là chiến lược phát triển bền vững của lĩnh vực này. Các chuyên gia cũng chỉ ra rằng, việc ứng dụng cô;ng nghệ 4.0 trong nuô;i biển cô;ng nghiệp giúp quản lý hiệu quả, giảm rủi ro, tăng năng suất chất lượng, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và bền vững hơn. Mặt khác, phát triển kinh tế từ nuô;i biển còn kéo theo sự hình thành và phát triển những ngành cô;ng nghiệp phụ trợ mới, đặc biệt là lĩnh vực hậu cần, thức ăn chăn nuô;i hải sản. Qua đó góp phần tạo thêm việc làm và sinh kế mới, tăng thu nhập cho người dân, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo và đặc biệt là góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng, biển đảo của Tổ quốc.

Trước những lợi ích kinh tế - xã hội từ nuô;i biển đem lại, để đảm bảo phát triển tiềm năng của đất nước, phát triển nuô;i trồng thủy sản cũng như nghề cá theo hướng chất lượng và bền vững, Chính phủ đã thể hiện sự quan tâm sâu sát và định hướng phát triển nuô;i biển trong tương lai. Trong đó, chiến lược phát triển nuô;i biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đặt ra mục tiêu là duy trì và ổn định vùng nuô;i ven biển, đảo gần bờ có hiệu quả, đảm bảo mô;i trường sinh thái; Phát triển mạnh cô;ng nghiệp nuô;i biển vùng xa bờ, hình thành ngành sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô; lớn, bền vững, tạo sản phẩm hàng hóa đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng cao, có thương hiệu, cung cấp cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Cụ thể đến 2030, diện tích nuô;i biển đạt 300 nghìn ha, thể tích lồng nuô;i 10 triệu m3, sản lượng đạt 1.750 nghìn tấn, giá trị xuất khẩu hải sản nuô;i đạt 4-6 tỷ USD; Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam có nền cô;ng nghiệp nuô;i biển tiên tiến, phát triển bền vững; sản lượng nuô;i biển đạt 3,0-4,0 triệu tấn/năm; giá trị thương mại và xuất khẩu trên 10 tỷ USD.


… còn đó những bất cập cần vượt qua
 
Dù đã trải qua quá trình hình thành và phát triển hàng chục năm, tuy nhiên, nuô;i biển vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bộc lộ những bất cập trong hoạt động sản xuất khiến cho sức tăng trưởng của ngành bị kìm hãm. Đặc biệt, quy mô; phát triển nuô;i biển hiện nay chưa tương xứng với tiềm năng. Việt Nam có trên 1 triệu km2 diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế, trong khi diện tích nuô;i biển của nước ta đến nay chưa đạt tới 300 nghìn ha và chỉ chiếm khoảng hơn 20% trên 1.140,4 nghìn ha tổng diện tích nuô;i trồng thủy sản cả nước (số liệu của Tổng cục Thống kê). Như vậy, nuô;i biển còn rất nhiều dư địa để phát triển, trong khi đó, hoạt động nuô;i biển đến nay vẫn còn manh mún, tự phát, thường xuyên phá vỡ quy hoạch.

Mặt khác, khó khăn về nguồn giống cũng là một trong những hạn chế trong hoạt động. Hiện Việt Nam mới chỉ sản xuất được một số giống cá biển nhân tạo với quy mô; nhỏ lẻ, còn nguồn cung chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu qua đường tiểu ngạch với chất lượng bấp bênh. Bên cạnh đó, còn là những khó khăn trong khâu cung cấp thức ăn do các mô; hình nuô;i truyền thống với các lồng bè thô; sơ, sử dụng nguồn thức ăn chủ yếu từ cá tươi (cá tạp, cá bột). Nguồn thức ăn này khô;ng mang tính bền vững, gây nhiều tác hại đến mô;i trường và có thể dẫn đến khan hiếm nguồn cá tạp tự nhiên, do nhu cầu lớn dẫn đến khai thác quá mức mà hiệu quả nuô;i trồng lại khô;ng cao, chi phí phát sinh lớn do giá thành thay đổi theo mùa.

Đặc biệt, nuô;i biển tại Việt Nam hiện nay chủ yếu theo quy trình nuô;i lồng bè truyền thống gần bờ, hạ tầng nuô;i còn nhiều yếu kém, thiếu quy hoạch và chính sách quản lý tốt dẫn đến tình trạng phải đối mặt với nhiều rủi ro thách thức, rõ nhất là suy thoái mô;i trường. Một số vùng nuô;i hiện nay đang có dấu hiệu ô; nhiễm nặng do độ sâu và tốc độ dòng chảy thấp, mật độ các lồng nuô;i quá cao, chất thải sinh hoạt và chất thải từ hoạt động nuô;i quá lớn, dẫn đến mâu thuẫn trong sử dụng mặt nước giữa nuô;i biển và các ngành kinh tế khác như: Du lịch, vận tải biển… Hơn nữa, với quy mô; manh mún, cô;ng nghệ lồng bè nuô;i chưa thích ứng được với những thay đổi thời tiết, sóng biển, cộng thêm biến đổi khí hậu gây ra các hiện tượng thiên tai, nước biển dâng, ô; nhiễm mô;i trường biển… đã khiến cho nghề nuô;i biển phải đối mặt với nhiều rủi ro, thiệt hại do bùng phát dịch bệnh hoặc đối tượng nuô;i chết hàng loạt, gây thiệt hại lớn cả mô;i trường, thu nhập và sinh kế của người dân làm nghề. Trong khi đó, thị trường đầu ra cho các sản phẩm nuô;i biển cũng bấp bênh và thiếu tính bền vững, chủ yếu được thương lái thu gom rồi xuất khẩu tiểu ngạch, bán cho du khách qua các nhà hàng và tiêu thụ nội địa tại các chợ địa phương.

Có thể thấy, từ khâu con giống đầu vào, quy trình sản xuất đến đầu ra, nuô;i biển đều gặp nhiều khó khăn, thách thức, khiến cho giá trị gia tăng của sản phẩm thấp, chưa thể tham gia vào chuỗi giá trị sản phẩm. Để cải thiện tình hình, tận dụng triệt để tiềm năng lợi thế phát triển nuô;i biển, bên cạnh các định hướng về quy hoạch ngành nghề, cần thiết lập khung chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư phát triển cộng đồng doanh nghiệp nuô;i biển (giao quyền sử dụng, cho thuê mặt nước biển, hỗ trợ lãi suất, tiếp cận vốn tín dụng trung dài hạn, ưu đãi thuế) từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước; hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp phát triển các chuỗi giá trị nuô;i biển (từ sản xuất con giống, thức ăn, nuô;i trồng, thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, chế biến, xuất nhập khẩu, phân phối, dịch vụ), có cơ chế khuyến khích tích hợp đa ngành và hợp tác quốc tế để tranh thủ cô;ng nghệ hiện đại phục vụ cho nuô;i biển cô;ng nghiệp, hướng đến nuô;i biển cô;ng nghiệp xa bờ. Từ đó từng bước khắc phục hạn chế, bất cập để nuô;i biển có thể tham gia vào chuỗi giá trị cao, hạn chế khai thác tài nguyên, đảm bảo nguồn cung nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu thủy sản, nâng cao năng lực cạnh tranh và góp phần phát triển bền vững nghề cá./.

 
Việt Nam có hơn 3 nghìn km bờ biển kéo dài từ Móng Cái, Quảng Ninh đến mũi Cà Mau cùng hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ nằm trên hải phận Biển Đô;ng; vùng biển có đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền và chiếm tới 30% diện tích Biển Đô;ng. Bên cạnh đó, vùng biển Việt Nam còn có tính đa dạng sinh học khá cao, là nơi phát sinh và phát tán của nhiều nhóm sinh vật biển vùng nhiệt đới. Đây là tiềm năng lợi thế rất lớn để phát triển kinh tế biển, đặc biệt là nuô;i trồng thủy sản trên biển đối với Việt Nam mà khô;ng phải quốc gia nào cũng có được.
 
Phương Anh
Link Tải Xuống HB Electronics